Trên thực tế, do không có danh mục quản lý đối với hàng hóa chứa tiền chất và đa số hàng hóa chứa tiền chất không thể nhận biết bằng cảm quan hoặc các phương pháp thủ công đơn thuần nên sẽ dẫn đến việc yêu cầu phân tích giám định tràn lan gây phiền hà, tốn kém cho DN. Ví dụ để xác định lượng Acid sunfuric có trong bình ắc quy chì hoặc lượng Axit Acetic có trong dưa chuột muối phải tiến hành giám định. Từ thực tế này, Bộ Công thương cần có văn bản hướng dẫn theo hướng cụ thể, hỗn hợp hóa chất chứa tiền chất mà phân loại vào mã số HS (mã số tính thuế) của tiền chất có tên chất, tên khoa học, mã CAS (mã số hóa học), công thức hóa học giống như mô tả tại Danh mục thì phải xin giấy phép nhập khẩu như tiền chất.
Thêm thủ tục
Một trong những vướng mắc được DN đề cập tới nhiều nhất là việc quy định không rõ mặt hàng phải áp dụng thủ tục xin giấy phép XNK và khai báo hóa chất đã dẫn đến tình trạng DN nhập khẩu các thành phẩm phục vụ tiêu dùng hay kinh doanh như mỹ phẩm, kem đánh răng, bình ắc quy, mực in, dưa chuột muối... (không phải hóa chất riêng biệt nhưng có thành phần hóa chất thuộc diện phải xin giấy phép hay khai báo hóa chất) thì đều phải đi xin các loại giấy tờ này từ Bộ Công thương.
Vì Nghị định không quy định rõ cách thức xác định hàm lượng hóa chất phải xin giấy phép XNK hay khai báo hóa chất như thế nào; việc cấp phép chỉ dựa vào hồ sơ do DN cung cấp hay cơ quan hải quan phải giám định để xác định thành phần và hàm lượng nên hiện một số chi cục hải quan đang yêu cầu DN phải giám định lô hàng nhập khẩu để xác định rõ thành phần, hàm lượng có đúng khai báo không mới cho thông quan, làm tăng thời gian thông quan và chi phí cho DN.
Trước đây theo Thông tư 06/2015/TT-BCT thì hóa chất mua bán, trao đổi trong lãnh thổ Việt Nam (bao gồm mua bán giữa nội địa với khu phi thuế quan, mua hàng của đối tác nước ngoài nhưng đối tác chỉ định nhận hàng từ người khác tại Việt Nam - gọi tắt là XNK tại chỗ) được miễn thủ tục khai báo hóa chất, nhưng Nghị định 113 không miễn thủ tục này cho DN nên tất cả các lô hàng hóa chất XNK tại chỗ đều phải làm thủ tục khai báo hóa chất. Vướng mắc hơn, hiện vì hệ thống một cửa quốc gia dùng để thực hiện thủ tục khai báo hóa chất trực tuyến không có danh mục cửa khẩu xuất/nhập đối với loại hình XNK tại chỗ nên DN không khai báo được. Tréo ngoe hơn, khi liên hệ tới hotline của Cục Hóa chất - Bộ Công thương thì lại được hướng dẫn không cần khai báo hóa chất cho hàng hóa XNK tại chỗ mà vẫn thực hiện theo quy định cũ - tức là theo Thông tư 06/2015/TT-BCT. Như vậy, ngay trong một quy định thì cũng đã có cách hiểu, cách áp dụng khác nhau. Nguyên nhân chính của cách hiểu này là “nhu cầu quản lý” chứ không từ việc tạo điều kiện cho DN.
Có thể thấy, Nghị định này có hiệu lực chưa lâu và được ban hành vào thời điểm Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có hiệu lực 1 năm. Vậy, vì sao lại có tình trạng gây khó cho cơ quan quản lý và DN như vậy? Phải chăng cơ quan soạn thảo đã chưa thực hiện tốt các quy trình xây dựng văn bản, trong đó có khâu quan trọng là tham vấn chuyên gia, DN và đánh giá tác động của chính sách. Hơn nữa, việc quy định thêm thủ tục - thủ tục cấp giấy phép XNK, khai báo hóa chất cho hàng hóa XNK là các thành phẩm có mã số hàng hóa (mã tra cứu thuế); thủ tục cấp giấy phép XNK và khai báo hóa chất cho hàng hóa thuộc loại hình XNK tại chỗ đã làm phát sinh chi phí cho DN, liệu vấn đề này được đánh giá như thế nào trong quá trình soạn thảo?